Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

Đôi mắt tâm hồn ở Giêricô (Mc 10:46-52)


Tôi là Ba-ti-mê, một người mù từ thưở lọt lòng mẹ, sinh ra và lớn lên ở miền đất Do Thái cằn cỗi nắng cháy, nhưng lại trù phú về những luật lệ khắt khe, dồi dào những thành kiến về con người.  Chẳng biết cha mẹ tôi, ông bà Ti-mê, có phạm tội lỗi gì không mà Thiên Chúa lại trừng phạt tôi thế này.  Tôi không tin vào điều đó vì biết cha mẹ mình là người hiền lương, ngay thẳng.  Tôi cũng không tin đó là hình phạt bởi một Thiên Chúa Nhân Lành.  Nhưng đó là một tín điều mà cả xã hội Do Thái, thế hệ này tiếp nối thế hệ kia tin tưởng như vậy.  Bởi thế tôi đã bị liệt vào hạng tội lỗi ngay khi cất tiếng khóc chào đời mà không chịu mở mắt nhìn đời.  Cuộc đời vốn đã bị nhiều thiệt thòi vì không được thấy ánh sáng mặt trời, tôi lại bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người vì những thành kiến hủ tục của một xã hội quá “đạo đức.”

Ngày ngày tôi vác bị lê la ra ngồi ăn xin ở cổng thành Giêricô.  Bữa no, bữa đói tùy vào lòng thương xót của ông đi qua bà đi lại, nói chung cũng đủ để lây lất qua ngày, dù tôi chẳng biết sống qua ngày để làm gì.  Cuộc đời này có gì vui đâu để mà sống?  Vào buổi sáng của một ngày như mọi ngày, khi đang ngồi thơ thẩn chờ đợi ở ngoài cổng thành, tai tôi bỗng nghe được những âm thanh náo nhiệt ở phía trong thành vọng ra.  Tiếng ồn ào lào xào của một đám đông, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng chó sủa, tiếng những bước chân chen lấn xô đẩy… đang từ phía trong thành đi ra.  Lạ nhỉ, chắc là một đám đông lớn lắm đây, những âm thanh này khác hẳn với những đám đông khác.  Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ?  Đám đông này là ai?  Họ đi đâu?  Tôi nghểnh tai nghe ngóng!  Vì mất đi thị giác nên thính giác của tôi rất nhạy bén.  Tôi nghe thấp thoáng xen trong tiếng gió lao xao là những tiếng thì thầm: Ông Giêsu, Giêsu thành Nazarét…  Tim tôi bỗng như ngừng đập.  Có thật không?  Là vị Ngôn sứ Giêsu người đã gây nhiều xôn xao trong những ngày gần đây bởi những phép lạ, những lời giảng dạy về một giáo lý mới mẻ…  Tôi đã nghe thiên hạ bàn tán nhiều về con người lạ lùng này, về lòng thương xót của Người đối với những kẻ bần cùng bị bỏ rơi sống bên lề xã hội.  Tôi biết ông ta mà, không những thế, tôi còn biết cả cha mẹ, nghề nghiệp, và dòng dõi xuất thân của ông ấy nữa.  Ông thuộc dòng dõi Vua Đa-vít, một vị Vua Thánh nổi tiếng nhân từ trong lịch sử dân tộc tôi.  Tôi chờ đợi cơ hội này lâu lắm rồi.  Ông Giêsu đi ngang qua đây thật ư?  Lòng tôi bừng lên một tia hy vọng mong manh.

Tôi đứng phắt dậy, chộp cây gậy và quơ quơ trong không trung, rồi quay bên phải, quay bên trái, lúng túng không biết nên đi về hướng nào.  Sợ mất cơ hội ngàn vàng này, tôi lại bỏ gậy xuống đưa tay lên miệng làm loa hướng về đám đông la thật to:

-          Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi.

Tôi hét thật lớn, lập đi lập lại nhiều lần đến khàn cả giọng với hy vọng ông Giêsu đang ở đâu đó trong đám đông có thể nghe được tiếng kêu lạc loài của tôi giữa những tiếng bát nháo hỗn độn.  Khoảng cách xa quá, tiếng kêu gào chưa tới được tai vị ngôn sứ thì đã làm cho những người đứng gần bên bực bội khó chịu.  Họ quát tháo nạt nộ bảo tôi im miệng.  Tôi cụt hứng, đang còn e dè chần chừ, bỗng một cái tát nảy lửa giáng vào mặt tôi, kèm theo một lời cục cằn thô lỗ:

-          Mày có câm miệng lại không?

Cái tát làm tôi xiểng liểng mất thăng bằng ngã lăn quay ra đất.  Tôi lồm cồm bò dậy, tay run rẩy mò mẫm tìm gậy, người tôi chao đảo làm tư tưởng tôi cũng bị lung lay theo.  Có nên nghe lời mấy người hung dữ này không?  Nếu không nghe họ, tôi có thể tiếp tục ăn thêm mấy cái tát, hay cú đá nữa không chừng.  Rồi sau này họ không bố thí cho tôi nữa thì sao?  Tôi đang sống nhờ lòng thương xót của họ mà!  Sau một lúc dao động, tôi chợt bừng tỉnh!  Không!  Không được, nếu nghe họ, tôi sẽ đánh mất cơ hội ngàn năm một thưở này.  Biết bao giờ ông Giêsu mới đi qua đây lần thứ hai?  Nếu có, tôi đâu dám chắc mình sẽ ngồi ở đây lúc Ngài đi qua?  Hoặc nếu có, ai dám đảm bảo lúc đó lại không có những kỳ đà cản mũi khác?  Tôi không còn gì để mất!  Cuộc đời tôi đã đến tận cùng của bất hạnh rồi, không hoàn cảnh nào có thể tệ hơn.  Bất quá thì đói thôi!  Bất quá thì bị thiên hạ ghét bỏ, hoặc ăn thêm vài cái tát tai nữa là cùng.  Thà đói còn hơn sống kiếp mù loà.  Thà bị ghét mà được sáng mắt, còn hơn được thiên hạ ưu ái mà bị mù.  Lấy hết sức bình sinh tôi lại hướng về phía đám đông tiếp tục gào lên:

-          Lạy Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương xót tôi.

Tôi gào đến lạc cả giọng, chỉ sợ ông Giêsu đi ngõ khác mà biến mất.  Lần này tiếng tôi kêu gào đã thấu đến tai vị Ngôn Sứ thì phải.  Tôi nghe tiếng dừng lại của đám đông, hồi hộp chờ đợi tôi nghểnh cổ nghe ngóng.  Loáng thoáng trong những tiếng ồn ào hỗn loạn, tôi nghe văng vẳng như có tiếng Người gọi tôi:

-          Gọi anh ta lại đây!

Hồi hộp chờ đợi là thế, nhưng khi nghe mình được kêu tên, ngạc nhiên chen lẫn lo sợ làm tôi lại thộn người đứng ì ra đó, không biết phải làm gì, không chắc là mình nghe có đúng không, không dám nhúc nhích, lòng vẫn còn lăn tăn sợ hãi, sợ lại bị ăn thêm mấy cái tát nảy lửa nữa thì khốn.  Như cảm thông với tâm tình rối loạn của tôi, một người đứng bên vỗ nhẹ lên vai tôi như trấn tĩnh, và bảo tôi đừng sợ, rồi một giọng nói thân thiện cất lên:

-          Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!

Đúng thế ư?  Ngài gọi tôi thật sao?  Là vị tiên tri Giêsu mà tôi hằng ao ước được gặp mặt?  Tôi đứng phắt dậy, vất ngay cái áo choàng là vật gia bảo trong kiếp ăn xin của tôi lại, quờ quờ quạng quạng tiến về phía phát ra tiếng nói.  Thấy tội nghiệp, một người đưa tay ra dắt tôi đi, được vài bước rồi ra dấu bảo tôi dừng lại.  Biết là đã đến trước mặt Người, Đấng mà lòng tôi hằng ao ước được diện kiến, tôi quỳ thụp xuống bái lạy Người để tỏ lòng tôn kính.

Một thoáng im lặng ngột ngạt, tôi có cảm tưởng như Giêsu và cả đám đông đang chăm chú quan sát nhìn tôi.  Rồi tôi nghe một giọng mạnh mẽ trầm ấm vang lên, phá tan sự im lặng:

-          Anh muốn tôi làm gì cho anh?

Xúc động trào dâng khiến tôi nghẹn ngào.  Vị ngôn sứ của dân tộc đang hạ mình xuống hỏi tôi, một kẻ ăn xin thấp hèn, cùng đinh của xã hội.  Tự dưng tôi ấp úng lúng búng gãi đầu gãi tai:

-          Thưa Thầy, thưa… thưa… thưa… xin cho tôi nhìn thấy được.

Cung giọng trầm ấm lại vang lên một cách mạnh mẽ quả quyết:

-          Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh.

Ngay lập tức cái màng đen dầy đặc che kín cặp mắt tôi từ bao năm qua được vén sang một bên.  Tôi dụi mắt bồi hồi, cặp mắt đã quen với bóng đêm dày đặc chớp liên hồi.  Tôi mở mắt he hé.  Ánh sáng mặt trời rực rỡ ôm choàng lấy tôi bất kể thân phận tôi là ai.  Lòng tôi nghẹn ngào, rạo rực.  Tôi nhắm mắt lại, rồi mở ra, được một lúc lại nhắm lại, rồi mở ra.  Ánh sáng mặt trời là đây ư?  Chói chang quá!  Những tia sáng rực rỡ muôn màu sắc lung linh nhảy múa, lượn qua lượn lại rồi ôm choàng lấy tôi.  Thế giới này nhiều sắc màu quá, mỗi màu mỗi vẻ, màu nào cũng tươi đẹp đang nở nụ cười chào đón tôi.

Đám đông ồ lên xôn xao khi tận mắt chứng kiến phép lạ cả thể đang xảy ra trước mắt.  Người ta dìu tôi đứng dậy, tay tôi vẫn quơ quơ trong không khí theo phản xạ tự nhiên của những ngày mù lòa.  Tôi nhíu mày bắt đầu đưa cặp mắt yếu ớt nhìn dáo dác một vòng những người xung quanh.  Cái nhìn đầu tiên của tôi chạm ngay một cặp mắt nhân hậu đang mở to nhìn tôi với ánh nhìn trìu mến yêu thương.  Trên khuôn mặt rám nắng nở một nụ cười mãn nguyện của một người cha đang thích thú quan sát đứa con nhỏ loay hoay với món quà mới.  Tôi đoán đây chính là Giêsu, con cháu vua Đa-vít, Người chỉ phán một lời mà đôi mắt tôi thoát ra khỏi màn đêm tăm tối.  Ngài nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi, dìu từng bước chân tôi tiến về phía trước, như người cha chào đón đứa con thơ, và tập cho con từng bước đi vào thế giới mới.  Cánh tay rắn rỏi của Ngài thay cho cây gậy là một điểm tựa vững chắc cho tôi trước một thế giới sáng mắt phức tạp mà tôi sắp bước vào.

Rồi Ngài đứng lại, buông tay tôi ra.  Tôi đứng im từ từ quan sát những khuôn mặt chập chờn xung quanh.  Có những khuôn mặt rạng rỡ hân hoan cùng chia sẻ niềm hạnh phúc với tôi, họ vẫy tay tươi cười chào đón tôi, đặc biệt là đám con nít.  Chúng la hét reo hò, vỗ tay hoan hô Vị Ngôn Sứ như vị anh hùng dân tộc.  Họ vui vẻ cười nói, chúc phúc cho tôi, và hân hoan cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu.  Cũng có những khuôn mặt thờ ơ lạnh lùng bàng quan, họ nhún vai nhếch mép cười khẩy, chẳng buồn cũng chẳng vui!  Phép lạ này chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống họ.  Có những khuôn mặt dữ tợn thô lỗ, họ né tránh cái nhìn của tôi bằng ánh mắt tiu ngỉu, ngại ngùng.  Tôi đoán đây là những người đã la lối hiếp đáp, ngăn cản không cho tôi kêu xin Giêsu.  Bên cạnh đó lại có những cặp mắt đỏ ngầu, cau có tức giận trong những khuôn mặt ra vẻ đạo đức đăm chiêu.  Những đôi môi tím tái mím chặt, như đang muốn thốt ra những lời nguyền rủa thay cho lời tạ ơn. 

Tôi rùng mình nổi da gà khi cặp mắt non nớt của tôi dừng lại trên những khuôn mặt ngút ngàn chất chứa hờn căm, đầy ánh ghen tị đó.  Đa số họ là Pharisêu, kinh sư, và các vị trưởng lão chức sắc trong dân.  Cuộc đời dưới ánh sáng mặt trời đẹp quá mà, sao lại nhìn nhau bằng ánh mắt như thế?  Sao lại ghen tị?  Họ không quý ánh sáng nơi cặp mắt họ, họ không trân trọng những gì họ đang có, đang nhìn thấy được.  Tự nhiên tôi thấy sợ khi phải đối diện với nhóm người này.  Tâm hồn ghen tương đố kỵ của họ trái ngược với vẻ ngoài đạo mạo.  Thà họ dữ tợn cục cằn như đám người lỗ mãng kia thì tôi lại không sợ.

Tôi bối rối nhắm mắt lại định thần, hít thở thật sâu cho lòng lắng xuống, cho những cảm giác ngỡ ngàng ban đầu qua đi, cho những cảm xúc hồi hộp, hoang mang không còn nữa.  Tuy là kẻ cùng đinh trong xã hội nhưng tôi biết mình có quyền chọn cho mình cái hướng để nhìn, một con đường để đi.  Tôi muốn nhìn ai, muốn thấy gì trong thế giới mới này?  Tôi muốn đi đâu, sống cuộc đời như thế nào sau khi đã được sáng mắt?  Đức Giêsu không chỉ cho tôi sáng mắt để thấy ánh sáng mặt trời, thấy thế giới vật chất này, mà Ngài còn mở mắt linh hồn tôi, cho tôi thấy được những điều thầm kín bên trong trái tim mỗi người qua cửa ngõ tâm hồn.  Vâng, tôi là một kẻ ăn xin dơ bẩn hôi hám về thể xác, nhưng tôi không muốn cửa sổ tâm hồn của mình bị vẩn đục bởi những cái không đáng để nhìn.  Tôi mở mắt ra, quay tìm về hướng Giêsu.

Ngài vẫn còn đó, hiền lành và kiên nhẫn dù các môn đệ đang giục Ngài lên đường!  Ánh mắt nồng ấm tiếp tục chờ đợi, chờ cho tôi cứng cáp, chờ cho tôi hoàn hồn trước một thế giới xa lạ, chờ xem sự chọn lựa và quyết định của tôi.  Một nụ cười cảm thông kín đáo như trấn an tôi đừng sợ trước những cái nhìn nham hiểm đầy mưu mô kia, như khích lệ tôi hãy mạnh dạn can đảm đối đầu với cuộc sống mới.  Ôi ánh mắt nhân hậu, cả một bầu trời mở ra, cả một đại dương yêu thương mà tôi muốn chìm mình trong đó.  Đây là cặp mắt mà tôi muốn ngắm nhìn mãi.  Qua cặp mắt Ngài, tôi thấy đuợc những khát vọng hoài bão thiêng liêng đang ấp ủ trong trái tim nồng cháy, tôi cảm nhận được một con tim sùng sục lửa yêu thương, một tình yêu to lớn ôm ấp không chỉ mình tôi mà cả thế giới.  Nơi Ngài toả lan một sức mạnh vô hình cuốn hút lấy tôi, làm tôi không cưỡng lại được.  Tôi chợt nhận ra rằng ngoài Ngài, không còn một con đường nào khác cho tôi.  Ngoài ánh mắt Ngài ra, tôi không thể tìm thấy được cái nhìn yêu thương ấm áp của một người cha như thế.  Không thể tìm đâu được một tâm hồn tuyệt hảo hơn!  Ôi, Giêsu!  Giêsu chữa lành cho tôi không phải vì lời kêu xin của tôi, nhưng vì lòng thương xót vô biên của Ngài, vì Ngài là tình yêu, chứ Ngài không hề nợ nần gì tôi, hoặc có trách nhiệm bổn phận phải chữa lành cho tôi.  Tự dưng nước mắt tôi trào ra khi cảm nhận được tình yêu vô điều kiện đó, những giọt nước mắt đầu tiên từ khi được nhìn thấy cuộc đời. 

Tôi cúi đầu mấp máy vài lời xin cho tôi được đi theo Giêsu và các môn đệ.  Tôi nghẹn ngào không nói được gì nhiều ngoài hai hàng nước mắt tuôn rơi.  Nhưng trong tim tôi thổn thức muốn nói với Ngài bao điều:  “Giêsu ơi, con là người vô dụng, không có tài cán gì ngoài tài ăn xin.  Con là kẻ bị bỏ rơi sống bên lề xã hội, xin hãy đón nhận con người hôi hám dơ bẩn cả về thể xác lẫn linh hồn của con.  Con quên chưa nói lời cám ơn Ngài, vị ân nhân của đời con, nhưng con biết Ngài thấu suốt tâm tư con.  Cuộc đời còn lại của con đây, xin được đặt dưới chân Ngài.  Xin cho con được đi theo Ngài trên mọi nẻo đường Ngài đi.  Cặp mắt con đây, xin dâng lên cho Ngài, xin cho cửa sổ tâm hồn con chỉ nhìn thấy Ngài, thấy những điều tốt đẹp của thế giới, của tình người, những gì mà Ngài muốn con nhìn thấy.  Xin cho con được ở lại trong ánh mắt yêu thương, trong trái tim nhân hậu của Ngài hôm nay, ngày mai và mãi mãi không bao giờ rời xa.”

Lang Thang Chiều Tím


Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh
tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ
bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi
mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không
biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế
nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được
khuôn mặt của những người thân. Không
tự mình làm gì được. Không tự mình sinh
sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban
ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm.
Bóng đêm dày đặc không một chút ánh
sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen.
Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thưở.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.


Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu
Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.


Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. 
Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. 
Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. 
Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. 
Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. 
Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. 
Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2018

Con đường thua tự nguyện

Mấy ngày nay thấy người người đi tìm hiểu ơn gọi, “nhà nhà” bước vào mùa ơn gọi, chợt nhớ một thuở nhấp nhổm “người đi tớ cũng đi”. Thật ra, đến bây giờ vẫn còn nhấp nhổm, nhưng là nhấp nhổm cầu nguyện cho ơn gọi. Gọi là “nhấp nhổm” chắc nhiều kẻ chê người trách, rằng thiếu nghiêm túc, rằng báng bổ việc thiêng thánh. Đành vậy, chung quy cũng chỉ tại vì vừa mừng mà cũng lại vừa lo... không yên được.
Ngày ấy cũng với ba lô trên vai, nhưng hơn phân nửa là ước mơ, là hoài bão xây dựng Giáo hội, mở mang nước Chúa, với những bản thảo, với những hình mẫu vẽ sẵn trong đầu, còn lại là đúng hai bộ quần áo cũ với vài thứ lặt vặt. Lúc ấy có ai mời đội đá vá trời chắc cũng chẳng ngại, vì thực ra trời lúc ấy cũng chỉ tầm dăm sải tay.
♦♦♦
Cũng chẳng nhớ là mất mấy năm mấy tháng nữa, chợt một ngày nhận ra, dù cũng mang tiếng là đi theo Chúa đó, cũng khát mong nên một với Chúa trong cùng một tâm tình, trong cùng một lối sống, cũng khao khát mang lấy trái tim của Chúa để biết run rẩy và chạnh lòng thương trước nỗi đau của phận người, cũng khát mong đi lại con đường mà Chúa đã đi, nhưng thực ra Chúa thì đã tụt xuống lâu rồi, còn mình thì cứ mải leo lên; Chúa trút bỏ mọi vinh quang danh dự để tụt xuống ôm lấy phận người, trở nên giống con người để chia sẻ với con người, còn mình thì cứ xây, cứ đắp, cứ leo, cứ trèo, cứ tìm kiếm vinh quang, tìm kiếm thành công để khẳng định sự khác biệt qua những bằng cấp, qua các chức vụ, qua các công trình...; Chúa chấp nhận hiến tế, bẻ ra, trao ban, để trở nên của ăn, của uống, để trở nên thần lương nuôi sống con người, còn mình thì cứ mải đắn đo tính toán được gì, mất gì trong từng chuyện cỏn con.


Chúa bước vào “con đường thua tự nguyện”, còn mình thì cứ mải mê trên “con đường thắng bất chấp”. Thành thử cứ ngược chiều nhau, cứ đau đớn mỗi lần thua thiệt, cứ tiếc nuối khi phải sẻ chia, từ bỏ, cứ dối lòng khi phải yêu thương. Giật mình nhìn lại, ngỡ tưởng mình đang đi theo Chúa, nhưng thực ra mình đang đi theo ý riêng của mình, hay chính xác là đang đi theo một Giêsu do chính mình vẽ ra chứ không phải như Ngài là, để rồi nơi mình chỉ còn là hình bóng một Giêsu đầy vinh quang danh dự và uy quyền, một Giêsu chưa bao giờ ngơi nghỉ trong cuộc đua thắng thua, dành giựt với các Giêsu nơi anh chị em khác.


Nhớ có lần cũng được đánh động bởi lời Chúa Giêsu nói với Giakêu: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Leo lên thì có thể “thấy” Chúa thật, nhưng tụt xuống mới có thể “gặp” Chúa, mới có thể “đồng bàn”, mới có thể đi vào tương quan thân tình với Chúa, mới có thể rước được Chúa vào nhà mình. Biết thế! nhưng tụt xuống chưa bao giờ là chuyện dễ dàng cả, cái cảm giác cứ buồn buồn tủi tủi làm sao ấy!


Năm đó, sáng Mồng Một Tết, đến dâng lễ tại một giáo xứ nọ, cũng giảng, cũng chúc Tết, cũng vỗ tay. Sau thánh lễ bà con khệ nệ ôm vác dắt díu nhau vào chúc tuổi cha xứ, mình lủi thủi dắt xe ra về, ngang qua những nụ cười xã giao mà cay cay khoé mắt. Tự nhiên trong lòng lại ao ước được bằng anh bằng em, lại tủi tủi buồn buồn.


Lần khác, cũng vào dịp Tết, cũng mua ký giò lụa và thùng bia về tết bố mẹ. Mấy ngày Tết chả thấy bố mẹ động đậy đến chả lụa với bia gì cả! Sốt ruột hỏi thì mẹ bảo: “Tao với bố mày mang sang Tết cha xứ rồi!”. Lại một lần nữa máu hơn thua nổi lên, “thằng bé” gắt gỏng: “Tại sao nhà mình cũng có cha mà lại không cho cha nhà mình ăn, mà lại cho cha nhà người ta ăn?”.
♦♦♦
Cứ liên tục như vậy, nhiều lúc lủi thủi một mình chuyển cộng đoàn, lại vớ vẩn ước ao được nghe tiếng nức nở của bà con giáo dân như các cha trong ngày chuyển xứ, một lần được ngồi xe kẻ đưa người đón. Nhìn bà con quấn quýt chúc mừng các cha trong ngày bổn mạng, trong ngày mừng 25, 50 năm linh mục..., cũng thấy thèm thèm, cũng muốn có, cũng muốn được. Cơn cám giỗ leo lên cho “bằng chị bằng em” là rất thật và dai dẳng như vậy đấy! Cứ sểnh ra là lại leo! Không leo được thì lại buồn, lại tủi, hoặc lại tìm cách kéo người khác xuống bằng cách nói xấu, dèm pha, thêm điều đặt chuyện...!
Nhấp nhổm cầu nguyện cho các ơn gọi, cầu nguyện cho mình, chính vì cái tính thích leo trèo của “đứa con nít” trong mỗi người, nếu không chăm sóc để ý, hở ra là nó leo ngay, làm cho tu sĩ ngày một dần xa Chúa. Mặt khác, bao nhiêu đau khổ, căng thẳng, khốn khó trong đời sống tu trì là do những “đứa con nít” leo trèo, thắng thua, kèn cựa, dẫm đạp lên nhau mà ra cả!
Hơn nữa, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lần đã khẳng định: “Sự thành công lớn nhất của đời người là sống thánh thiện”. Như vậy, rõ ràng sống thánh thiện mới là thành công lớn nhất trong cuộc đời tu sĩ, chứ không được đo bằng những công trình xây cất, cũng không phải bằng những chức vụ đảm nhiệm, cũng chẳng phải được tính bằng những bằng cấp đạt được. Ước mong, “đứa con nít” trong mỗi người dần trưởng thành và hiểu rằng “con đường thua tự nguyện” mới là con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi, mới là con đường nên một với ngài trong sự thánh thiện.

Gã Khờ (Gioankim Việt Dũng, OP.)

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2018

Đừng bao giờ... là một tu sĩ !

Cám ơn sr Mười đã gởi bài sưu tầm này cho TN.
Chúng mình vẫn mãi là những người bạn hiểu nhau dù đường đời hai lối rẽ.
Chúc Mười lúc nào cũng dễ thương, vui vẻ, nhiệt tình và luôn được mọi người yêu mến, 
vì Mười xứng đáng được như vậy.

Con yêu dấu !
Con của mẹ ! Mẹ nhận ra sự thay đổi ở con. 

Phải ! Con đã lớn. Đã đến lúc con rời xa vòng tay của mẹ để tự đứng một mình trên cuộc đời. Con là đứa con ngoan và mạnh mẽ trong mắt mẹ. Mẹ yêu con. Nhưng mẹ biết một ngày nào đó, con sẽ là một phần của người khác. 
Một ngày nào đó, con sẽ gặp và yêu một người. 
Xa hơn nữa, con sẽ là một nửa còn lại của một người khác, người bạn đời của con.


Con thân mến !
Mẹ không ngại, nếu người con yêu không phải là một người giàu có. 

Nói cách khác, mẹ chấp nhận nếu người đó có nghèo đến đâu. Chỉ cần là một người có nghề nghiệp đàng hoàng và đặc biệt người đó yêu con thật lòng.


Mẹ sẽ không có ý kiến gì nếu người con yêu là một người có ngoại hình bình thường. Và thậm chí, mẹ sẵn sàng chấp nhận nếu người đó có dị tật về ngoại hình. Chỉ cần con chắc chắn rằng con yêu người ấy và dám hi sinh cho người ấy đến suốt đời.

Mẹ sẽ không phản đối, nếu người con yêu là một người ngoại đạo. 
Mẹ chỉ muốn rằng trước khi lấy con, người ấy là một tân tòng có tình yêu thật sự với Đức Kitô. Và con hãy chắc rằng, dù thế nào con cũng sẽ cùng người đó đến với Bí tích Thánh Thể hàng ngày và ít nhất là hàng tuần cho đến suốt đời.


Con yêu! Mẹ sẵn sàng chấp nhận mọi khuyết điểm của người con yêu ! 
Nhưng con ơi ! Người đó, đừng bao giờ là một tu sĩ!


Mẹ hiểu, con sẽ phải day dứt, đau khổ thế nào nếu con yêu một người tu sĩ. 
Mẹ biết con và họ sẽ chẳng bao giờ đến được với nhau và nếu có đến với nhau thì cũng không thể có một hạnh phúc trọn vẹn được.
Người đó đẹp, tài giỏi, có lòng nhân hậu, vị tha, ở người đó hội tụ mọi nét đẹp đẽ nhất của con người. 

Nhưng con ơi ! Đó là người của Chúa, người Chúa đã chọn từ thuở đời đời !


Con biết không ? 
Mỗi con người sinh ra, đều đã có con đường của riêng mình, con đường Chúa đã dành cho họ. Họ có thể làm theo ý mình bởi họ có tự do. Nhưng họ sẽ không thể đạt được hạnh phúc viên mãn, nếu con đường họ chọn không phải là con đường Chúa dành cho họ.

Con biết đấy ! 

Một cái quạt không thể làm công việc của một bóng đèn. Một chiếc bếp làm sao đảm nhận công việc của một chiếc giường. Hay một cái tủ không thể làm công việc của một chiếc xe !..
Và con không thể để một người tu sĩ sống đời sống hôn nhân với con !


Mẹ xin lỗi, mẹ không cố ý so sánh con người với đồ vật vô tri vô giác. Con người có tự do, lý trí và ý chí. Mẹ chỉ muốn nói cách đơn giản nhất để con hiểu. Một tạo vật chỉ có thể hạnh phúc và bình an khi là chính mình. Nghĩa là đứng ở vị trí, làm công việc mà Người tạo dựng đã dành cho chúng.


Nhưng nếu một lúc nào đó, con yêu một người tu sĩ, con hãy mạnh mẽ dứt khoát với tình cảm đó. Nếu họ cũng yếu đuối dành tình cảm cho con, thì con của mẹ, con hãy can đảm dừng lại đừng để lấn quá sâu. Và nếu cả hai đều yếu đuối đi xa với tình cảm đó, thì con yêu, con hãy mạnh dạn nhận lấy sự đau khổ, chấp nhận ra đi khi còn có thể. Để họ được trở về với con đường của họ. 

Còn con, con hãy về bên mẹ. Mẹ sẽ cùng con vượt qua nỗi đau ấy.

Nhân lúc này đây, khi con còn chưa vướng vào tình ái. Hãy nghe lời mẹ dặn. Con có thể yêu một ai, nhưng….

Đừng là vật cản trên con đường của một tu sĩ.
Đừng bao giờ để một tu sĩ phải bận tâm về con. Bởi họ còn phải bận tâm đến nhiều người và nhiều việc khác.
Đừng bao giờ yêu một người mà Chúa đã chọn.
Đừng bao giờ tranh giành tình cảm mà họ đã dành cho Chúa. Bởi tình yêu của Ngài dành cho họ chắc chắn nhiều hơn con!
Con! Con hãy kiên nhẫn thêm một chút để chờ một nửa của con, người mà Chúa dành riêng cho con từ muôn đời. Con hãy yêu một người nào đó dù họ có nhiều khuyết điểm hơn một tu sĩ!


Nhưng người con yêu… đừng bao giờ là một tu sĩ ! Con nhé !


(Bởi vì chúng mình đã có những người bạn phải rời xa lý tưởng
 vì không kềm chế được trước sự cám dỗ của tình yêu đôi lứa phải không Mười ? 
Tiếc cho nhau nhưng chỉ để tiếc vì mỗi người đều có tự do riêng để lựa chọn.)

Thứ Ba, 16 tháng 10, 2018

Những bữa ăn chậm...

Con hỏi mẹ : Sao người ta lại rời bỏ nơi yêu thương để yêu thương những người xa la ?
Mẹ trả lời : Mỗi khi con nhận thực phẩm là con đã nhận được yêu thương dành cho những người xa lạ, mà con là một trong những người xa lạ đó...
Một tháng sau ngày con đi, mẹ nhận được bài viết của con.

Nhìn chung, kẻ tu hành không phải làm kinh tế (ngoại trừ một số ít dòng tu). 
Nên họ có nhiều thời gian mà tập trung cho việc học hành, chiêm niệm, và cảm nhận cuộc sống. Và do đó, họ phải tu tâm tốt hơn, phải chiêm niệm được nhiều hơn, phải cảm nhận được nhiều hơn về những sự kỳ diệu của cuộc sống này; để còn cho những người xung quanh biết nữa.

Một người giáo dân hoặc phật tử bình thường thì làm gì có thời gian mà cảm với chẳng nhận, mà chiêm với chẳng niệm. Họ phải ăn thật nhanh, uống thật nhanh, tắm thật nhanh, làm gì cũng phải thật nhanh để có dư được thật nhiều thời gian đặng mà kiếm tiền nữa. Cho nên các giác quan của họ ít nhiều mất đi sự nhạy cảm tuyệt diệu mà Chúa trời đã ban. Lưu ý sự nhạy cảm ở đây không phải là độ nhạy. Mũi họ vẫn có thể nhạy đó, ngửi ngay một cái là biết mùi gì. Lưỡi họ có thể nhạy đó, nếm một cái là biết thiếu vị gì trong món ăn. Nhưng tôi đang nói đến một thứ nhạy cảm khác. Một thứ nhạy cảm mà chỉ có được khi chúng ta làm một thước phim chiếu chậm.

Trong cộng đoàn chúng tôi, người nấu ăn chính mỗi ngày sẽ có 200,000 VNĐ để đi chợ cho 3 bữa ăn, cho 16 miệng ăn. Nếu không có các vị ân nhân, chắc chắn số tiền đó là không đủ (200,000 chia cho 48 phần ăn (3x16) = 4,000/phần ăn. Toàn là thanh niên cao lớn, 4,000/phần ăn thì làm sao mà đủ no, đừng nói tới đủ dinh dưỡng.

Nhưng may mắn là chúng tôi có khá nhiều ân nhân. Có người cho thịt mỗi thứ hai, có người cho đậu hũ mỗi thứ ba, có người cho rau củ quả mỗi thứ năm. Lại có người cho gạo, muối, đường, nước mắm, giấy vệ sinh (à, lượng giấy vệ sinh hiện có đủ xài cho 10 năm). Ngoài ra cũng có một số ân nhân tặng đồ ăn không theo định kỳ, lâu lâu một lần. Nhờ vậy mà bữa ăn của chúng tôi tốt hơn, giàu dinh dưỡng hơn. Ngoài 3 món chính (canh, mặn, xào) chúng tôi còn có tráng miệng.

Nhưng không phải ân nhân nào cũng giàu có. 
Nhiều người chỉ ở mức trung bình. 
Khi gửi đồ ăn cho chúng tôi, họ bảo :"Các thầy gần Mẹ gần Chúa thì cầu nguyện cho các cô chú với". Cho nên, khi tôi ăn ngồi vào bàn ăn để ăn 3 bữa chính, tôi tập trung tâm trí của mình vào những vật phẩm được bày biện trên bàn ăn mà phần lớn là được tặng. Cho nên, tôi đã làm một thước phim chiếu chậm: tôi ăn chậm lại, tôi ngậm đồ ăn trong miệng lâu hơn, để cảm nhận mùi vị của chúng. 
Ở đây có nhiều loại mùi vị lắm, ngoài mùi vị của thực phẩm, nó còn có mùi vị của đất trời, và của tình người. Thật thú vị khi có thể làm chậm lại mọi thứ để cảm nhận sâu hơn, sâu hơn nhiều so với cái cảm nhận cơ bản là :"Ờ, ngon đó", hoặc "hơi mặn", hoặc "thiếu chút hành tỏi". 
Tôi cảm nhận thật sâu vị ngọt của củ cải trắng, vị thanh của đậu cô-ve, mùi thơm của bơ. Và tôi nhớ đến gương mặt của những ân nhân của mình qua mỗi cái gắp thức ăn.

Thật tuyệt vời khi chúng ta có cơ hội, có điều kiện để làm cái việc cảm nhận đó.
Nó cho chúng ta cảm giác, một cảm giác rất rõ ràng là chúng ta đang sống như một con người chứ không phải như một cái máy.

Trí tuệ nhân tạo hiện nay đã phát triển không tưởng. Những thứ chúng ta được xem trong phim khoa học viễn tưởng vài mươi năm trước, giờ đây đã gần như thành hiện thực. Máy móc hiểu được tiếng nói của con người, giờ đây máy móc có khả năng gọi điện thoại đến một nhân viên lễ tân ở một nhà hàng để đặt một bàn ăn cho 6 người vào tối thứ 6 tuần tới. Trong đoạn hội thoại mà Google biểu diễn, cuộc nói chuyện có những chỗ trục trặc kiểu ông nói gà bà nói vịt, không hiểu ý nhau, nhưng máy móc đã xử lý được và đã đặt bàn thành công.

Chắc cũng sớm thôi họ sẽ sớm chế tạo được một con robot để làm bạn với loài người, khi chúng nghe ta kể chuyện, nếu là một câu chuyện cảm động thì bộ xử lý trung tâm sẽ ra lệnh cho tuyến nước mắt tiết ra nước giống như con robot đang khóc vậy. Nhưng cái khóc đó không đến từ cảm nhận, việc đó quá rõ ràng.

Vậy nên, khi chúng ta có thể cảm nhận, và khi chúng ta ý thức được rằng chúng ta đang cảm nhận sâu, thì khi đó chúng ta sẽ có cảm giác chúng ta là một con người, không còn là một cái máy nữa.

Nếu toàn bộ thực phẩm là do chúng tôi bỏ tiền ra mua, có lẽ tôi đã không có cơ hội để chậm lại như thế. Có lẽ tôi vẫn sẽ giữ thói quen cũ: ăn nhanh, và trong khi ăn thì tập trung vào những thứ khác (vd như những câu chuyện đùa bên lề của anh em, hoặc những sự việc tiêu cực mà tôi gặp phải trong ngày hôm đó hoặc những ngày trước đó).

Ân nhân đã tạo điều kiện cho tôi biết chậm lại, biết thực hành lòng biết ơn, biết cảm nhận. Và kết quả của việc thực hành biết ơn, thực hành cảm nhận là tôi đã để lại những sự tiêu cực bên ngoài tâm mình, để giữ cho tâm luôn bình thản, bình an. Điều này quan trọng lắm, bởi mỗi khi kết thúc giờ kinh phụng vụ buổi chiều, tôi luôn được nghe câu chúc này từ Cha Đức:"Chúc anh em một giấc ngủ bình an, và vào giờ sau hết, được ơn chết lành."

Còn về phần các vị ân nhân, thì Chúa Giêsu có nói:"Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu". Hoặc như kinh sách Phật giáo cũng có nói, người nào cúng dường cho tăng đoàn để họ có điều kiện mà thành đạo, thì công đức của người đó là lớn lắm.

Xin cầu cho anh em chúng tôi giữ vững bản lĩnh và cái tâm của một kẻ tu hành. Để không phụ lòng của những vị ân nhân.
(Nguyễn Trương Nhật Quang)