Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Để nhớ về nhau...

Rời tập viện năm mười chín tuổi, một đứa con gái như tôi sau sáu năm trời nội trú trong trường dòng, giờ như hoàn toàn ngỡ ngàng, xa lạ trước dòng đời rộng lớn. Ba năm ở cao nguyên Dalat với biết bao mộng mơ của tuổi học trò, cái mộng mơ của thời mới lớn. Dalat với những buổi học mà lời thầy cô dạy cứ như văng vẳng ở đâu đó chứ chẳng phải trên bục giảng ngay trước mặt mình, vì tâm trí lãng đãng nhìn ra rừng thông thoai thoải xa xa, nhìn những triền dốc uốn lượn quanh co trên các sườn đồi, màu xanh của thông, của cỏ cây, màu sắc rực rỡ của những cánh hoa dại lúc nào cũng như mê hoặc chúng tôi. Từ giã thành phố mộng mơ, tôi về Saigon học thêm hai năm nội trú , ở môi trường này tôi trưởng thành hơn mọi mặt, cộng với một năm cày cuốc, chăn nuôi ở miền đất cát Phước Lộc là bài học đầu đời dạy tôi biết khi có được miếng ăn mỗi ngày phải vất vả như thế nào !

Sau tháng 4/1975 bố mất việc làm, một mình má tôi gồng gánh với đàn con mười một đứa, tôi yên tâm với đời sống bố đã lựa chọn và đang kỳ vọng vào tôi sao ? Tôi yên tâm với sáng sáng chiều chiều cất cao lời ca tiếng hát sao ? Khộng thể, ngàn lần không thể, tôi có cái chọn của riêng tôi với nhiều tiếc nuối... Lúc đó, bố giận tôi lắm, giận đứa con gái nhìn có vẻ ngoan hiền mà lại bướng bỉnh, muốn gì làm nấy, quyết định lớn của cuộc đời mà không hỏi ý kiến ai, bố giận đến mức độ cả hai năm trời không thèm nhìn mặt.tôi. Còn tôi, tôi cũng đau đớn đâu kém gì bố. Không bằng cấp, không tay nghề chuyên môn, tôi bắt đầu tháng ngày tìm việc. Cố lục lọi trong trí nhớ địa chỉ của những người bạn Saigon, vì hầu hết dân nội trú toàn dưới tỉnh lên học, rồi tôi cũng nhớ ra...

Đầu tiên,  tôi đạp xe đến nhà MN và TN, bạn cùng lớp. Các bạn đang làm mành sáo trúc xuất khẩu. sau một hồi lòng vòng nói chuyện, tôi nhờ bạn có thể giúp tôi chút xíu công việc được không ? Bạn trả lời ngắn gọn : chỉ đủ làm thôi. Trên đường về, tôi buồn lắm, một nỗi buồn không nói nên lời, tôi buồn không phải vì bạn không chia việc cho tôi mà vì tôi không thấy ở bạn tôi sự ân cần, sao bạn không hỏi tôi vài câu về hoàn cảnh hiện tại, sao bạn không hỏi nhà tôi ở đâu để nếu biết được việc gì thì bạn sẽ chỉ cho ?  Cảm giác của tôi : bạn ít nói và lạnh quá !

Tôi tìm đến D, bạn đã có chồng và mấy con. Chồng bạn đạp xích lô, kinh tế cũng chỉ đắp đỗi qua ngày, thương bạn, tôi đến hoài thôi, chơi cả buổi, nói chuyện thật nhiều. Rồi chồng bạn mất, thương bạn cô đơn, tôi càng đến nhiều hơn. Cả khi có chồng, tôi vẫn còn dành thời gian cho bạn. Thời gian sau đó, gia đình bạn vượt biên trót lọt, nghe kể con bạn rất may mắn và thành đạt nơi xứ người, tôi mừng cho bạn thoát khỏi cảnh khổ của những tháng ngày qua. Vậy mà... bạn vẫn vô tình, bao nhiêu lần bạn về nước ? bao nhiêu lần bạn gởi cho người này, người kia những món quà, vẫn vô tình chẳng nghĩ đến tôi. Bạn đừng nghĩ xấu cho tôi nhé ! tôi không quan trọng vật chất đâu, nhưng một chút vật chất cũng thể hiện tình cảm mà ! Tôi bỗng nhớ lại trong nhiều năm dài đến với bạn, chưa một lần bạn hỏi nhà tôi ở đâu để ghé thăm khi có dịp (tôi biết bạn có con nhỏ nên bận rộn), tôi chợt hiểu trong lòng bạn không bao giờ có tôi, tình cảm tôi cho đi chỉ một chiều...


Cũng may...tôi có Ry, Ry đưa tiền cho tôi đi học may, tánh tôi dễ tin và thương người nên đã cho người khác mượn xoay sở trong vụ tai nạn xe cộ để rồi tiền đi không bao giờ trở lại. Không có tiền cũng đồng nghĩa với việc không thể học may. Món nợ ân tình ấy rất lâu sau này tôi mới hoàn trả cho bạn được.

Cũng may... tôi gặp lại Thông, bạn thân ngày xưa, hoa khôi của một thời Dalat thơ ngây áo trắng, Thông giờ trôi dạt về Saigon và đang bán mỹ phẩm ở chợ Tân Bình. Nhìn tủ kính đầy ắp những phấn son, tôi ước gì mình có được một hộp phấn con Én (thời ấy phấn con Én là sang rồi) và một thỏi son để trang điểm, con gái đứa nào chả thích. Hình như đọc được cái thèm muốn ấy trong mắt tôi, Thông đưa cho tôi món quà mà nảy giờ tôi mơ ước, thế nhưng lòng tự trọng đã ngăn tôi lại, tôi không dám nhận, Thông nói cỡ nào tôi cũng chối từ, tôi trân trọng tình cảm bạn dành cho tôi, tôi muốn khóc vì món quà ấy, nhưng tôi không thể nhận vì tôi hiểu gia đình bạn lúc này cũng khổ sở lắm, bị nhà nước khép tội là tư sản, bị đánh tư sản hai lần nên gần như khánh kiệt. Gom tất cả vốn liếng còn lại, ba mẹ bạn hùn vốn đóng tàu ra đi, chuyến đi ấy bạn hẹn tôi lên để chơi với nhau một buổi. Tôi đúng hẹn nhưng hành trình đã sớm hơn dự định, tôi đọc lá thư bạn gởi lại, một lá thư tạm biệt đầy nước mắt của cả hai đứa. Qua Mỹ, bạn đi học, thư đi, thư về gói trọn cả chân tình, tôi còn nhớ trong thư ấy có câu : "TN ơi ! T đi học về mà trời mưa lớn quá, T không biết đó là nước mắt hay nước mưa rơi trên mặt mình " hoặc : " TN ơi ! T tủi thân vô cùng, đi học bằng xe buýt mà trên xe có dòng chữ thật lớn : coi chừng người Việt Nam ăn cắp, còn nỗi nhục nào lớn hơn không hả TN ?", mỗi khi đọc thư ấy, tôi cũng khóc, cũng thấy tủi thân và nhục như bạn tôi vậy. Có khi tôi bất chợt nhận quà từ phương xa, gói quà nhỏ bé lọt thỏm giữa những thùng đồ nặng ký, đó là hai hộp kem Hoa Lan (loại kem khá nổi tiếng lúc bấy giờ). Tôi đi nhận quà mà chung quanh có người bĩu môi : gởi vậy mà cũng gởi. Nhưng với tôi, thật sự là cả một trời thương yêu, họ đâu hiểu rằng bạn tôi không tiền, chỉ vì bạn không muốn thấy tôi xấu với cái mặt đầy mụn mà thôi. Vì khi còn học ở Dalat, tôi với bạn là cặp bài trùng, nhiều chị nói : trong lớp có hai đứa đẹp, lại thân nhau, một đứa sắc sảo, còn một đứa trông ngây thơ, mũm mĩm (là tôi).

Cũng may... tôi có Thủy. Bạn là con của chủ , tôi là một trong bốn người làm công mỗi ngày. So với những người làm công khác thì tôi là người làm chậm nhất, lương lãnh theo năng suất nên tiền của tôi bao giờ cũng ít nhất, đó là công việc quấn thuốc lá thành điếu để mang bán, công việc mà những người không cần học chữ nào cũng làm giỏi hơn tôi. Còn tôi học cho lắm giờ thế này đây !!! Cái buồn sâu đậm trong tim khiến mỗi buổi sáng tôi đến đây lặng lẽ, không nói một tiếng. Thủy nhận ra điều này, bạn nói chuyện với tôi rất ân cần nên từ từ tôi cảm thấy vui hơn, bạn nâng tôi lên là bạn thân của bạn. Tôi còn nhớ lúc đó Thủy yêu anh Sang mà gia đình không ai đồng ý, mỗi lần hẹn nhau là Thủy dẫn tôi đi chung, cả nhà cứ tưởng hai đứa đi chơi đâu đó nhưng thật ra tôi chỉ đứng đợi với bạn ở điểm hẹn, khi nào anh Sang đến thì tôi về. Lương tháng chẳng bao giờ đủ cho gia đình mười mấy miệng ăn, thiếu hụt lần nào là tôi mượn Thủy lần đó, cũng chưa bao giờ bạn càu nhàu, bực bội khi phải cho tôi mượn tiền. Lần nào trả nợ, Thủy cũng hảo tâm tặng lại cho tôi chút ít để dằn túi. Sau này gia đình Thủy sang Mỹ định cư, thỉnh thoảng có dịp bạn lại gởi về cứu trợ cho tôi.

Cũng may... tôi có Hải Yến. Tôi nghèo, bạn cũng nghèo, nhà cách nhau khoảng chừng gần ba cây số nhưng hai đứa qua lại hình như mỗi ngày, chỉ toàn đi bộ vì chẳng đứa nào có xe đạp, gặp bữa thì ăn cơm như chị em ruột thịt. Sau bao nhiêu năm dù có khá lên đôi chút nhưng chuyện chồng con của Hải Yến vẫn còn ngổn ngang nhiều điều, nhưng tôi khâm phục ở bạn lòng đạo đức, thánh thiện, dù đau khổ cỡ nào bạn vẫn một niềm cậy trông, tín thác và tạ ơn. Hải Yến ơi ! TN thua bạn nhiều lắm ! 

Cũng may... tôi còn những người bạn khác chung quanh,  những người bạn chưa từng học chung, ăn chung, ngủ chung như bạn bè nội trú, những người bạn Phật giáo, vậy mà các bạn từng bước nâng đỡ tinh thần, chia sẻ khó khăn, chia sẻ công việc cho tôi rất chân tình như chị Liễu, như Kim Thoa, Bửu Châu, Bửu Trân, Kim Ánh, Quỳnh Trâm...

Chị Liễu lớn hơn tôi đúng một con giáp, chị chưa chồng, dễ thương, hiền lành, nhà rộng thênh thang mà có một mình nên chị hay rủ tôi ra chơi cho vui, tôi cũng thích nữa vì bên chị, tôi như cô em gái nhỏ, nghe chị tâm sự, dạy bảo đủ chuyện trên đời. 

Tôi không biết may nhưng Thoa lãnh áo sơ mi về, bạn dạy tôi cách may thân áo, tra cổ thế nào cho khéo, từng bước một cho đến khi tôi tự kiếm ra tiền mới thôi. Là con một nên bạn được cưng chiều, mẹ nấu không đúng ý là bỏ ăn, những lúc ấy tôi ăn dùm bạn, cái gì mẹ bạn nấu cũng ngon, nhà đông con nên tôi đâu được những bữa ăn ngon như thế !

Khi sơ mi không còn nữa thì Bửu Trân, Bửu Châu kiếm hàng khác cho tôi may. Hai chị em rất dễ thương, kiểu nào tôi không biết thì Trân hướng dẫn. Mẹ của Trân, Châu ngồi bán thuốc lá ở đầu hẻm, bác cũng thương tôi, khi nào nhận được hàng từ nước ngoài, bác cũng dành tặng tôi vài cây kẹo sing-gum, có khi là một hộp kem Hoa Lan với lời dặn : kem này tốt lắm, con xức đi cho hết mụn.

Ánh và tôi thân nhau thật sự chứ chẳng có yêu iếc hay đồng tính gì đâu. Thưở ấy, tôi sợ nhất là Noel, ai cũng có cặp, có đôi, riêng tôi vẫn một mình lẻ bóng. Con gái nhà nghèo, lại không còn đẹp như ngày xưa, tôi mang nhiều mặc cảm. Tôi rủ Ánh đi lễ đêm, bạn cũng chiều, vào nhà thờ làm con chiên ngoan đạo. Tôi nhớ Kim Ánh bảo tôi đừng lấy chồng, khi nào cả gia đình đi nước ngoài thì Ánh sẽ ở lại, hai đứa ở chung một nhà với nhau.Thế nhưng tôi lấy chồng trước, hai đứa không còn gặp nhau vì tôi có con nhỏ, bận rộn suốt. Thỉnh thoảng ngang qua nhà Ánh, tôi dừng xe nói chuyện ít phút rồi lại vội vã về nhà. Vài năm sau cả gia đình bạn qua Úc định cư, biết tôi khó khăn nên mỗi độ xuân về là tôi lại nhận được quà của Ánh, thật một miếng khi đói bằng một gói khi no. 

Quỳnh Trâm thì nhỏ hơn tôi bốn tuổi nhưng em lanh lẹ, tháo vát, hiểu biết hơn tôi nhiều. Tôi và em chia sẻ với nhau từng tấm áo đẹp, từng bữa ăn đạm bạc đến những bữa ăn ngon (điều này thỉnh thoảng mới xảy ra). Ba em là đại úy quân đội Viêt Nam Cộng Hòa nên sau ngày giải phóng phải đi học tập. Gia đình tôi đã nghèo mà gia đình Trâm thì lại càng thê thảm hơn, gạo mua từng bữa chứ đừng nói từng ngày. Là chị hai, em cũng chung vai với mẹ giống hệt như tôi, lo cho đàn em nhóc nheo năm, sáu đứa. May mà có diện HO, em đi lúc nào tôi chẳng hay, cho đến lần đầu tiên em về nước và tìm ghé thăm tôi với bao nhiêu tâm sự tuôn trào. Trâm ơi, chị mừng, rất mừng cho em, nếu ở lại đây, giờ này em ra sao ? làm gì có tương lai cho con sĩ quan chế độ cũ ?
                                                                                                  ..............


Thời gian dần qua đi, từng ngày với những đổi thay, tôi không giàu nhưng đã thoát được cái khổ sở, nghèo túng của một thời đeo đẳng tưởng chừng không lối thoát.
Và bạn, những người đã đi qua cuộc đời tôi cũng thế, cũng đổi thay.
Hình như rất lâu rồi ai cũng bận rộn nên chuyện ngày xưa dần khép lại, chẳng có dịp liên lạc cùng nhau, riêng tôi, khi nhìn lại, có niềm vui, cảm ơn cuộc sống đã cho tôi gặp nhiều bạn tốt, nhưng lẫn trong đó cũng có một chút buồn : những lúc khó khăn mới đo được lòng bạn hữu...

(Viết để nhớ về những người bạn ở sát cạnh bên tôi thời ấy...)

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Phúc ấm con ban !!!

      Tôi đến Mỹ rất trễ, đến từ một quốc gia thứ ba, nên ba mươi năm sau ngày mất nước tôi mới đặt chân lên xứ cờ hoa. Văn hóa và hệ thống xã hội nơi đây có những khác biệt so với nơi tôi đã sống, và điều dễ thấy nhất là nếp sống của xã hội Mỹ như vội vàng, cạnh tranh, và tấp nập hơn, so vơi nơi tôi đã sống, êm đềm và lặng lẽ.
          Người Việt ở đó ít hơn, nếp sống và sinh hoạt của gia đình còn mang nhiều nét truyền thống của nơi chôn nhau cắt rún. Người ta rất thân tình và chân tình khi bắt gặp nhau nơi công cộng, giáo đường hay chùa chiền. Và nhất là những lúc được thông báo có người Việt từ nước khác tới định cư, là những người già, những người có phương tiện, tình nguyện đưa đón, hướng dẫn các thủ tục nhập cư, những giấy tờ cần thiết cho một đời sống mới.
          Có lẽ đất Mỹ, nơi tôi đang sống, có cái khung cảnh xa lạ hơn, vì những núi đồi trùng trùng điệp điệp, đôi lúc cho tôi cái cảm giác như đang đi trên đèo Ngoạn Mục, quảng đường từ Phan Rang lên Đà Lạt một thủơ nào. Cảm giác êm ái đó làm tôi liên tưởng tới khu đồi mà dòng Donbosco tọa lạc, nơi có hoa Anh đào nở rộ mỗi bận Xuân về, màu hoa rực rỡ giữa núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng của cao nguyên.
          Cũng đã mấy chục năm bỏ lại quê hương, bỏ cả những chiều lộng gió của núi rừng Đà Lạt và Di Linh, không hiểu những nơi chốn ấy bây giờ đã thay đổi ra sao, màu chè xanh của Bảo Lộc còn xanh như màu xanh ngày cũ, khu chợ Hoa Đà Lạt, hay bờ Hồ Xuân Huơng còn dương liễu rũ xuống ven bờ, mà những hồn thơ ngày đó đã ví von như mái tóc thề của mấy cô sơn nữ cao nguyên. Bao nhiêu đã mất, bao nhiêu còn giữ, bao nhiêu còn nhớ được trong tâm trí của trang lứa chúng tôi ?
          Cái mất mát hẳn nhiên đã làm chúng tôi đau đớn xót xa, nhưng chưa chắc đã bằng những chua chát, bẽ bàng, mà trang lứa chúng tôi phải gánh chịu trong cuộc sống tuổi già trên đất nước xứ người.
          Tôi đến Mỹ như đã nói là rất muộn màng so với nhiều đồng đội, và những người bạn thân tình thưở nào cũng đã tản lạc mỗi đứa một nơi, và ở đây , trong vòng 50 dặm vuông hay vài trăm dặm dài, tôi cô đơn không bè bạn. Mỗi ngày, ngoài việc nhổ cỏ vườn sau, nhặt lá vườn trước, đưa đón bốn cô cháu đi học, tôi chỉ còn biết đi bộ, nhìn đồi núi nối tiếp nhau trên thành phố này để mơ mộng về núi rừng quê tôi, nơi mà hàng chục năm tôi và đồng đội chung sống, có khi gian nan, mà cũng có lúc thật thơ mộng. Và rồi trong một trường hợp ngẩu nhiên, tôi đã gặp được bác Thụy, một người Việt Nam cô độc, cũng lạc lỏng đến nơi này như tôi.

          Cũng là một thói quen như nơi tôi đã từng sống, hễ gặp được người nào mà tôi đoán là dân nước tôi, thì tôi không ngại ngùng đến làm quen, và câu hỏi đầu tiên của tôi thường là " Ông nói được tiếng Việt nam không ? " Nếu người đó trả lời họ là người Việt thì tôi nhất định rất vui mà hỏi chuyện. Tôi quen bác Thụy cũng trong trường hợp tương tự.
          Từ lần gặp đó, tôi hay tìm tới bác vào mỗi cuối tuần hoặc là những khi bác gọi tôi đến , và lúc nào bác cũng mở đầu bằng câu " chúng nó đi cả rồi ",ý của bác là các con đã đi làm hết . Tình thân của chúng tôi từ đó ngày càng thân thiết hơn, bác kể cho tôi 12 năm trong quân đội, phục vụ cho một đơn vị Quân báo, hoạt động trên lảnh thổ Quân Đoàn I, bị thương nhiều lần, nhưng lần nào cũng may mắn qua khỏi. Bác đến Mỹ không thuộc diện HO, vì thời gian bác được thả, Phòng công tác nước ngoài thuộc công an Thành phố Hồ Chí Minh ở 161 Nguyễn Du, Quận I, còn đóng cửa, nên bác vượt biên, bị bắt cho đến khi chương trình HO được thực hiện, bác vẫn còn ở trong tù, do vậy bác đến Mỹ theo chương trình Đoàn Tụ, con gái bảo lảnh hai vợ chồng nên không được hưởng một trợ cấp nào của Chính phủ Mỹ như diện HO, tất cả đều do thân nhân bao bọc.

          Thời gian ở lại Việt Nam, bác đi dạy học, cũng như trước khi động viên bác là một Giáo sư dạy Vật Lý tên tuổi tại Sài Gòn, lương giáo viên tuy không khá , nhưng cũng đủ cho hai vợ chồng bác sống tạm qua ngày, nhất là bác được các trung tâm chuyên Lý mời cộng tác, nên dạy cả sáng, chiều và tối , Vã lại mỗi năm, các con bác gởi cho một vài trăm đô la vào dịp Tết, hai vợ chồng lại dành dụm mua một chỉ hay 5 phân vàng hầu dùng cho việc ma chay sau này, cho đến năm 2003, con gái bác viết thư báo tin cho biết là đã làm hồ sơ bảo lảnh cho ba má , bác cũng chẳng hy vọng gì, vì thời gian đợi chờ dường như đã quá mòn mỏi, vã chăng tuổi đã cao, đi đâu cũng chỉ kiếm hai bữa cơm mà thôi, nên gần như vợ chồng bác không nghĩ tới chuyện ra đ i, cho đến năm 2006, bác được gọi bổ túc hồ sơ, rồi cuối năm đó, bác được phỏng vấn, theo bác kể thì có lẽ vì lợi tức của con gái bác cao, nên họ cho đi nhanh và rồi đầu tháng 4 năm 2007 bác được sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng tính cho đến nay, bác vẫn chưa hội đủ điều kiện thi nhập Quốc tịch Hoa Kỳ .
          Thời gian đầu sống với con cái vui vẻ lắm, vì còn mới, tình cảm còn mới, mọi thứ còn mới và còn mới là còn vui vẻ,  rồi từ từ bác được một người quen giới thiệu đi làm assembler cho một hảng điện tử, lương $10/ giờ, hai vợ chồng già thật là hạnh phúc, cứ cuối tuần là hai ông bà rủ nhau đi WaltMart hay Target mua áo quần và đồ chơi cho các cháu, nhưng rồi kinh tế ngày càng suy thoái, sau gần hai năm làm assembler, bác mất việc làm, không có cách nào xin được việc khác, vã chăng, những người trẻ còn chưa xin ra việc làm thì ông già 63 tuổi như bác dễ gì tìm được việc, nên bác đành xin tiền thất nghiệp, và được hưởng thất nghiệp hai năm, khoảng thời gian này bác cho biết rất là buồn, suốt ngày vợ chồng cứ mong cho hai đứa cháu đi học về để chơi với cháu cho đỡ buồn, rồi thì cứ vườn sau sân trước, vợ chồng thi nhau nhặt cỏ, tưới cây, hay lên đồi lượm những viên đá hình dáng đẹp đem về lót quanh mấy bụi hồng cho hết thời gian.
          Bác cũng năng nổ đi tham gia sinh hoạt các hội đoàn, như hội người già, Hội SQ/TBTD, nhưng rồi tiền trợ cấp thất nghiệp hết, và khó khăn đến với bác bây giờ là tiền đổ xăng, bác không biết xin ai hai chục bạc để mua xăng, bác nói, một đôi khi bổng dưng nghe thèm một tô phở, nhưng cũng không cách nào có được, "Ông ạ, có đêm tôi không ngủ được chỉ vì nghĩ tới mùi ngò gai và rau quế bỏ vào tô phở mà chảy nước miếng hoài không ngủ nổi, thèm như là thèm được ăn đường lúc ở trong trại tù ".

          Tình cảm con người hình như rất mỏng manh, không phải bền chắc, và rất dễ gãy đổ, từ tình vợ chồng, cha con hay anh em, và nghèo đói là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tình cảm. Cổ nhân cũng đã từng nói "phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc", cái gì người ta bảo "tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng như thiên kim" có chăng, chỉ là trong đạo đức kinh hay sách vở của Thánh hiền mà thôi. Không có tiền, nguyên lý nào cũng bị bỏ quên, đạo đức nào cũng dư thừa, và tình cảm nào cũng mai một. Đặc biệt là ở một xã hội mà mọi nền tảng đều lấy lợi nhuận làm chuẩn.
          Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục và hy sinh. Con cái ở chung với cha mẹ là tự nhiên, nhưng cha mẹ ở chung với con cái lại ưu phiền, vì lúc nào cũng phải nhìn mặt mủi con cái, phải xem chừng nó vui buồn bất chợt ra sao. Muốn mở cái TV cũng phải lựa lúc nó vui vẻ, muốn mở cái CD nghe nhạc cũng tùy thời cơ nó buồn hay giận, lại còn phải coi sóc con cái cho chúng, nhỏ thì cho đi tiêu đi tiểu, rửa đít, cho ăn, tắm giặt. Lớn thì đưa đón tới trường, có khi còn bị chửi mắng, đành chỉ biết cúi mặt giấu nước mắt đi. Họa hiếm lắm, chúng cho vài ba trăm bạc vào dịp lễ nào đó thì lại coi như phúc ấm chúng ban cho .
          Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục, chính là chỗ này.
   

Một buổi sáng bác gọi tôi tới nhà, chỉ cho tôi một tờ giấy con gái bác viết để lại trên bàn cho bác, tôi cầm lên đọc :
          "Theo luật bên nầy, chủ nhà có quyền gọi cảnh sát đến bắt buộc người thuê phải ra đi, nếu người chủ đã thông báo cho người thuê hai lần bằng thư. Ba không trả tiền nhà, nhưng con cũng coi ba như người thuê nhà, đây là lần thứ hai con yêu cầu ba dọn ra, ba đừng ép con phải gọi cảnh sát".
Tôi đọc đến đây, bổng nhiên nước mắt tôi trào ra, bác nhìn tôi và nấc lên thành tiếng, bác cũng bật khóc. Tôi ôm hai vai bác và nói "Hãy yên tâm, không có luật như vậy đâu, nếu cô ấy gọi cảnh sát, bác có thể nói cô ấy ngược đãi người già, con bác chỉ hù bác thôi". Và rồi bác bắt đầu kể cho tôi nghe hết tự sự.
          Thoạt đầu là gạo, chúng nó than phiền, "nhà người ta một năm chỉ tốn hai bao gạo thôi, sao nhà mình mỗi tháng một bao", Tôi mở cassette ngồi ngoài garage nghe nhạc, ngoài garage thì nóng, tôi mở cửa bên hông ra cho bớt nóng, nó đóng lại, và bảo mở cửa chuột chạy vào nhà, tôi hiểu ý là nó sợ tốn điện, nên tắt cassette ngay..
          Ông cũng biết, ở bên này, người già chỉ lấy cái TV làm bạn, nhưng nó mắng vào mặt tôi và bảo không biết xài thì đừng xài, TV cứ mở hoài chịu sao nổi, thế nào cũng có ngày TV bị cháy.

          Mỗi ngày, chúng nó đi làm về trễ, có khi 7:30 hay 8:00 tối mới về đến nhà , và tôi đều cố gắng ăn trước để không chạm mặt chúng nó trong bữa ăn, ăn trước thì thú thật chỉ ăn sơ sài cho no bụng thôi, thức ăn của chúng tôi không dám đụng vào, vợ tôi thì chờ cho chúng ăn hết đã, cái gì còn lại bà ấy mới ăn, chúng tôi chỉ dám ăn những thức ăn thừa thải mà thôi. Công việc lặt vặt trong nhà như lau dọn, rửa chén bát, đưa đón các cháu, chúng tôi đều làm hết, nhưng nó bảo với tôi là tội nghiệp thằng chồng nó phải còng lưng gánh hai ông bà già. Những ngày nghỉ, hay cuối tuần, vợ chồng con cái chúng đi ăn tiệm, những năm đầu khi cháu út chưa thể gởi đến trường, thì chúng còn gọi vợ tôi đi ăn với chúng, những ngày lễ, tết cũng tặng quà cho vợ tôi, nhưng từ khi cháu út lớn rồi, chúng cũng lơ là với vợ tôi luôn, cho đến sau này, chúng lạnh lùng đến như bỏ mặc, vợ tôi buồn quá đành đi tìm chổ giữ trẻ ở một tiểu bang khác, nên ông tới nhà không thấy vợ tôi là vậy.
          Bác lấy dưới gối ra một lá thư khác đưa cho tôi, bác bảo lá thư không có một chút tình người, thú thật tôi không dám đọc hết, nhưng trong trí tôi như vẫn in sâu những dòng này "ba người ta chết thì con cái khóc lóc tiếc thương, nhưng nếu ba chết con sẽ thở ra một cách nhẹ nhỏm. Con thật không muốn bảo lãnh ba sang Mỹ đâu, chỉ vì bắt buộc mà thôi, Ba hãy dọn ra đi để còn một chút gì gọi là tự trọng".

          Tôi cũng tự hỏi mình, bác đi đâu bây giờ? Một đồng bạc cũng không có, bà con, bạn bè cũng không luôn, bác dọn đi đâu? trong khi bác lại chưa phải là công dân Hoa Kỳ, làm cách nào để có thể xin trợ cấp, tôi đành an ủi bác, thôi bác cứ yên tâm, điều quan trọng bây giờ là hãy nhịn, nhẫn nhục đó mà, cứ coi như ngày nào bác bị bắt tại mặt trận, Việt cộng hành hạ bác kiểu gì, nhục mạ bác ra sao, bác cũng ngậm bồ hòn, thì nay, với con gái, bác ngậm lại bồ hòn một lần nữa đi rồi từ từ hãy tính.
          Một ông già tóc đã bạc hết rồi, nước da đã ngã màu đồi mồi, tay chân đã lọng cọng, dễ gì xin được một việc làm trên một đất nước đầy dẫy nhân lực và cạnh tranh.
          Tôi biết có rất nhiều cơ quan, tổ chức thiện nguyện, sẵn lòng tiếp những người khó khăn, nhưng với hoàn cảnh của bác, thật không có tổ chức nào có thể giúp đỡ, vì có tổ chức nào có nhà cửa, cơm áo, để cung cấp cho bác trong lúc này, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách các cơ quan, giáo dục, y tế hay xã hội ... đều bị cắt giảm. Và tôi chỉ còn một con đường để đi, đó là dẫn bác tới Sở Xã hội, để xin cấp thẻ EBT ( Electronic Benifits Transfer), tức là mỗi tháng, Sở Xã Hội bỏ vào trong thẻ EBT $200 USD cho bác mua thực phẩm, gạo, rau, cá, thịt, nước uống, trái cây...
          Nhận được thẻ EBT bác liền hỏi nhân viên Xã Hội là có thể mua ngay thức ăn được không? và thực phẩm là những thứ gì? Người người Cán Sự Xã Hội nhìn tôi, tôi dịch lại lời bác và nói thêm rằng, bác không có gì ăn từ hôm qua cho đến nay. Người Broker xin phép đi ra một lúc, rồi quay trở lại đem theo phần ăn trưa của cô để tặng bác. Quả thật tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt khi nói câu đó với người broker. Đúng là một miếng khi đói, bằng một gói khi no, bác cúi đầu cám ơn người Cán Sự Xã Hôi mà như muốn khóc.
          Tôi đem bác đi mua thực phẩm để hướng dẫn bác cách dùng thẻ EBT. Lần mua thử nghiệm đầu tiên của bác là 2 ổ bánh mì và 2 hộp cá Sardines rồi bác và tôi ra Parking chui vào xe ngồi ăn bánh mì cá hộp.
          Tôi thật không hiểu rõ những tư tưởng nào đã đến với bác, nhưng mà nỗi xúc động của bác thì tôi biết là rất mãnh liệt, vì nước mắt bác đã chảy đến nỗi dùng hết một hộp khăn giấy của tôi để trong xe, tôi ngồi yên để bác khóc và suy nghĩ về mình, không hiểu có một lúc nào đó tôi lại như bác hôm nay. Trên đất nước tạm dung này, những người già đã trở thành gánh nặng cho con cái, những người già đã bị lãng quên hay bị xua đuổi của gia đình, mà xã hội dù có nhân đạo tới đâu cũng khó kham nỗi với số người cao niên ngày càng nhiều.

      Một lần tôi đưa bác đi tái khám bệnh phổi, tôi ngồi chờ bác ở phòng đợi thật lâu, và khi bác trở ra cùng với một vị bác sĩ người Việt còn trẻ, vị bác sĩ này lấy ví ra 3 tờ bạc 20 đồng và nói "cháu chỉ còn bao nhiêu tiền mặt, nhưng cháu có một căn phòng trống trong Building này, có Microwave, khi nào bác cần thì gọi cho cháu, bác hãy nhớ là bác còn chúng cháu ở đây. Ông quay sang nhìn tôi và dặn chú làm ơn để ý tới bác này với, người già nào cũng có một nỗi khổ khi sang đây."
    Suốt quãng đường về tôi cứ mãi suy nghĩ về người bác sĩ đầy lòng nhân ái ấy. Y thuật và y đạo, điều nào được người ta coi trọng hơn trên đất nước này. Tôi hỏi bác Thụy về vị bác sĩ ấy, được biết ông ta tên là DR. Albert H. Lee, chuyên khoa về phổi, là bác sĩ đang làm việc tại hai bệnh viện lớn ở thành phố này, và rất được bệnh nhân quý trọng cả về chuyên môn lẫn đạo đức.

          Bác Thụy cho biết, thường ngày bác dậy rất sớm vì không ngủ được, có đêm bác chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, rồi cứ suy nghĩ lung tung về chuyện đời, chuyện gia đình, về thời gian đi tù cải tạo, thời gian đi dạy dưới chế độ cộng sản.
          Bác kể sau khi được thả ra tù, vì tốt nghiệp đại học trước 1975, nên bác không bị đuổi đi Kinh Tế Mới, mà được kêu đi dạy. Là một giáo sư dạy Lý Hóa nhiều năm, kinh nghiệm đặc biệt về phương pháp dạy Luyện thi, nên các Trung Tâm Luyện thi dạy ngoài giờ đều mời bác cộng tác, bác dạy cả sáng, chiều và tối, nhờ đó mà gia đình bác có được cuộc sống tương đối so với những anh em khác đi học tập về, và các con bác cũng từ đó mà học đến nơi đến chốn trước khi ra nước ngoài.

Trước ngày sang Mỹ, bác bán đi căn nhà, thu gom tài sản lại, cũng đựoc vài ba chục ngàn đô la, đều đem cho con hết, bây giờ nếu quay về, không còn nhà để ở, và biết lấy gì làm kế sinh nhai, vì tuổi đã cao rồi, làm sao xin được việc làm, đó là chưa nói tới những phiền toái khác từ xã hội, thật là tiến thoái lưỡng nan, bác tâm sự.
         

Có một buổi trưa tôi tìm tới bác, chứng kiến bữa cơm trưa gọn gàng của bác mà mủi lòng, một tách uống cà phê đong đầy Oat Meal, đổ vào một tô lớn, rót nước nóng từ bình thủy ra, khuấy đều chừng 2 phút, chờ nguội và ăn, không cần nước mắm hay xì dầu, hoặc một loại gia vị nào khác. Bác bảo từ khi có thẻ EBT, tôi không còn lo thiếu xì dầu nữa, nhưng nhịn được cái gì hay cái đó, với lại bác sĩ bảo ăn mặn cũng không tốt .
          - Bác ăn như thế này mỗi ngày sao ?
          - Vâng, chỉ vậy thôi, tôi đâu có cần gì thêm, chỉ cần một căn phòng nhỏ, đủ đặt một cái giường là được rồi, thế nhưng đời tôi quả là cùng khổ, mà thực ra tôi đâu có cầu sống lâu, sống thọ, sống không có gì vui, thì chết đâu có gì buồn, sỡ dĩ tôi vẫn đi b ác sĩ là vì tôi sợ đau đớn, cũng như tôi không đủ can đảm để tự tử, còn chết ư, tôi nghĩ tới rất thanh thản, trên đời tôi không còn gì mê luyến thì chết đi tôi đâu có gì tiếc nuối, chỉ cầu sao cho được chết thật nhanh, không đau đớn, đó là nguyện vọng duy nhất còn lại của tôi. 


Thường thường bác hay kể cho tôi về những bữa cơm dã chiến của bác, như bữa ăn của những người lính ngoài mặt trận. Bác mua một cái bếp gas nhỏ bỏ trong túi vải mang theo bên mình mỗi khi đi bộ, một bình thủy nước sôi, một tách cà phê Oat meal, một cái tô và muổng. Buổi trưa ngồi vào một góc nào đó trong Park, nơi người ta cho phép nướng BBQ, bác mở hộp cá ra, hâm nóng bằng bếp gas chừng 2 phút, rồi đổ nước sôi trong bình thủy vào tô và khuấy Oak meal lên ăn, bác chỉ về nhà vào xế chiều, làm thức ăn tối và nấu nước sôi đổ vào bình thủy, chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau, và những việc này luôn luôn làm xong trước khi con gái bác về nhà, ăn chiều xong, bác lại chui vào căn phòng nhỏ giấu mình trong đó, để không phải gặp mặt con gái nghe nó nói nặng nói nhẹ.
     Bác tâm sự rằng, đôi lúc muốn ôm mấy đứa cháu một chút, nhưng thật rất khó, vì chúng nó sợ má la, lâu lâu con cháu lớn lén vào phòng ông, đưa ngón tay lên môi làm dấu với ý bảo ông im lặng, ngồi chơi với ông một lúc rồi chạy ra. Có những khi chúng nó vào phòng ông, má nó biết được là la mắng chúng liền. Ông cháu gặp nhau như đi thăm tù cải tạo, thật là một hoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi.

Nghe bác kể lại, tôi đành tìm cách an ủi bác, kể cho bác nghe về những đứa cháu phá phách của tôi, mọi thứ trong phòng tôi mỗi ngày được xếp theo một kiểu, computer của tôi được load đầy các games "comp của ông ngoại dễ xài hơn, con thích games trong comp của ông ngoại hơn" thế là cái computer của tôi bận dài dài, chỉ trừ khi chúng đi học. Cho nên chơi với cháu chưa hẳn là hạnh phúc đâu bác ạ .
     Bác kể cho tôi những bữa cơm chấm xì dầu thật cảm động. Mới đầu bác hỏi tôi :" Ông có bao giờ mút xì dầu chưa "? Tôi trả lời là tôi không hiểu ý bác.
     Bác kể lại vào những tháng bác chưa có thẻ EBT, bác ăn cơm với xì dầu hiệu đậu nành, nhưng không dám chan vào chén cơm, chỉ hai miếng cơm mới nhúng đầu đũa vào chén xì dầu một lần và mút lấy đầu đũa, vì nếu chan vào chén cơm hay mút nhiều lần thì sẽ hết mất, không có tiền mua nữa. Những ngày tháng ấy, anh Hồng, ngày xưa ở Biệt Động Quân, và một thời làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Rừng Lá, trước ngày mất nước anh về Phủ Thủ tướng, mỗi lần ghé thăm, anh thường mua xì dầu, rau muống, Broccoli cho tôi, tôi còn nhớ mãi, bây giờ anh move đi xa rồi, cách đây cũng vài ba tiếng lái xe nên anh không thường tới nữa, mà cũng tội nghiệp, anh ấy cũng chỉ sống với mấy trăm đồng tiền già mà thôi, nhưng khi nào tới cũng đưa tôi đi ăn phở, hay có khi anh mua sẵn hai tô phở mang đến đây hai anh em cùng ăn. Nghĩ lại, chỉ có những người lính mới thương nhau và đùm bọc nhau trên đất nước tạm dung này.
     Ông biết không, vào những ngày tháng đó, có khi tôi rất thèm bánh tráng có vừng đen, hay cơm trắng và xì dầu, mà phải là xì dầu đậu nành, đủ cho tôi ăn không sợ hết. Những đêm nằm không ngủ được, tôi lại ao ước có được một ổ bánh mì của chợ Vons để ăn, tôi thèm mùi thơm của bánh mì chưa kịp nguội, hoặc giã đã nguội đi, tôi lại thèm vị ngọt của bánh khi nhai còn thấm trên đầu lưỡi của mình, thèm đến chảy nước miếng.
     Nghe bác kể, tôi thực sự không cầm được lòng mình, lại nghĩ tới thời gian đi tù cải tạo, tôi cũng đã từng thèm được ăn một bữa khoai mì cho thật no, và chỉ mơ ước ngày được thả về, tôi sẽ bảo vợ mua khoai mì cho tôi ăn một bữa cho đã thèm.
    

Khi thiếu thốn, con người sẽ thèm đủ thứ, cho nên nghe bác kể, tôi thực sự hiểu được cảnh ngộ ấy, và hiểu được sâu xa nỗi lòng của bác, chỉ có một điều mà không ai ngờ được, đó là sống trong một siêu cường bậc nhất, mà người dân chỉ thèm một ổ bánh mì không cũng không có để ăn, cái ước mơ nhỏ nhoi ấy đã ở dưới mức tầm thường rồi, vì kể cả những người vô gia cư trên thành phố này, cũng không ai có một ước mơ như bác Thụy. Có ai quanh đây đang lâm vào tình cảnh của bác hay không tôi không rõ, cũng có thể có người bị gia đình hắt hủi, con cái bỏ rơi và xua đuổi, nhưng đến một đồng xu dính túi cũng không có thì tôi không tin.
    

Rồi một ngày bác nhờ tôi chở đi xin việc, bác đọc được một mẫu rao vặt đăng tin cần một người đứng tuổi, có sức khỏe, để săn sóc một ông già 83 tuổi, bị bệnh mất trí, bao ăn ở, tiền lương sẽ thương lượng. Tôi chở bác tới địa chỉ tìm gặp chủ nhà, cô chủ nhà tiếp chúng tôi và hỏi :
          - Chú xin hay chú này xin?
          - Tôi, bác nhanh nhẩu trả lời.
     Chủ nhà dẫn chúng tôi đến phòng ông cụ, cô cho biết ông cụ đã quên hết mọi thứ, cần giúp ông cụ ăn uống, đi tiêu, đi tiểu, thay quần áo, và tắm cho ông cụ. Mọi sinh hoạt của ông cụ đều cần được giúp đỡ, nhất là về đêm, ông cụ hay thức dậy đi quanh quẩn trong nhà một mình, những lúc như thế cần có người bên cạnh, đề phòng khi ông cụ bị té. Nhiều khi ông cụ đi tiêu, đi tiểu trong quần mà không biết. Và cô hỏi:
          - Chú có thể giú ba tôi được không ? Hay chú làm thử vài ngay , vì có người nhận làm nhưng một hay hai ngày sau lại bỏ vì không chịu được tính tình của ông cụ.
          - Không đâu, tôi làm được, tôi rất thích người già và trẻ con, cô cứ để tôi làm.
          - Vâng, vậy chú có bằng lái xe không cho cháu xem thử?
     Bác lấy bằng lái xe đưa cho cô chủ, cô ta xem xong rồi trả lại bác, cô nói : 
Ba cháu nặng 65 ký không hiểu chú có thể đỡ nổi không, chú làm thử một vài ngày đi, nếu không được, cháu vẫn tính lương cho chú.
     Lương tháng là $800, bao ăn ở, mỗi tuần nghỉ một ngày, tốt nhất là thứ bảy, cái giường phía trong là của ba cháu, chú nằm giường ngoài. Thức ăn hàng ngày cháu nấu sẵn để trong tủ lạnh hay trên bếp, chú muốn ăn thứ gì cứ ăn tự nhiên.
     Mỗi ngày ba cháu uống 12 loại thuốc, ăn cơm trưa, chiều, sáng. Ba cháu uống cà phê, khi chú pha cà phê, nên để nguội rồi mới đưa cho ba cháu, vì ba cháu thích khuấy cà phê bằng ngón tay rồi mút. Thuốc thì cháu sẽ viết tên, liều lượng, giờ uống để trên bàn, chú cho ba cháu uống đúng giờ là được rồi.
     Sau khi chủ nhà và bác bàn bạc công việc xong, tôi chở bác ra về, hẹn thứ 2 tuần tới là bắt đầu đi làm. Thoạt đầu bác có vẻ rất vui vì tìm được công việc, nhưng một lúc sau, tôi thấy bác khóc, bác như bị hụt hơi cứ nấc lên từng tiếng, tôi lo sợ nên tìm cách đưa bác vào một shop bên đường, đậu xe lại và hỏi bác :
          - Sao bác lại buồn?
          - Con người ta thì thuê người săn sóc cho cha, còn tôi thì bị đuổi ra khỏi nhà đi chùi đít cho thiên hạ, ông nghĩ xem có tủi không ?

Nói xong câu này bác lại khóc lên thành tiếng. Tôi ngồi im để bác khóc cho hết cơn xúc đông rồi mới bảo bác, mỗi người có một số phận, một đoạn trường, và một nỗi niềm phải gánh, không ai có thể có hạnh phúc hoàn toàn, chỉ có ông cụ 83 tuổi ấy mới thực sự hạnh phúc, vì ông đã quên hết mọi sự, đã không còn biết mọi sự.
     Làm cha mẹ, được con cái yêu thương, gia đình hòa thuận dĩ nhiền là điều tốt, . Nỗi đau khổ bị con cái bỏ rơi hay xua đuổi chưa hẳn đã lớn hơn nỗi đau đớn khi phải nhìn thấy con mình dửng dưng với cha mẹ , Không hiểu bác có nghĩ như tôi không?
     Bây giờ ở là mùa hè, rải rác đó đây, trên những đồi hoang quanh nhà tôi đã trổ lên vài chùm hoa dại, màu vàng như hoa Cúc, càng làm tôi nhớ đến quê hương mình, như ngày thu trên rừng núi cao nguyên, những khóm quì hoang cũng nở vàng như vậy trên những triền đồi, và càng nhớ đến người sĩ quan thám báo bây giờ không phải đang nhật tu trận liệt, hay chăm sóc một đồng đội kém may mắn, mà là đang chăm sóc một cụ già mất trí...

Du Tử Nguyễn Định
(Emai chị Mary Phạm)


Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Thập tự hồng


Có tiếng ve hết hè còn nức nở,
Có nụ hồng chưa kịp uống sương mai,
Có trái tim thổn thức suốt đêm dài,
Có bờ môi… vẫn khép buồn lặng lẽ,
Có kỷ niệm vụt tan theo gió nhẹ,
Có giọt buồn đọng lại ướt bờ mi,
Có ánh mắt nhìn nhau chẳng nói gì,
Có bài thơ, viết mãi còn dang dở.
Có CHÀNG XUÂN đã dâng mình theo Chúa
Vẫn “bóng hồng” chiều tựa cửa ngóng trông,
Có NÀNG THU đã khép cổng tu phòng
Vẫn “cây si” ai đó trồng trước ngõ?
Lạ gì đâu chính kỳ công tạo hoá
Cho con người một “bí ẩn” trong tim,
Để ai ai cũng khắc khoải kiếm tìm
“Một nửa kia” để thương và để nhớ.
Chuyện “xương sườn” nơi địa đàng nguyên tổ,
Chuyện Thiên Tử lên thập tự hiến dâng,
Chuyện chàng xuân… còn những phút bâng khuâng,
Chuyện nàng thu… chợt chạnh lòng xao xuyến.
Để một người trước bàn thờ thánh hiến,
Để một người lặng lẽ ngước nhìn lên
Cảm nhận “giờ” hấp hối của con tim
Quyện tình Chúa – tình người trong nước mắt.
Đã bao lần, nụ hồng thành đinh sắt
Đóng tim tôi, xé nát cõi lòng tôi.
Nụ hồng nào, nụ hồng chẳng có gai,
Thập giá nào không thẫm màu máu đỏ?
Xin dâng Chúa mọi vui buồn quá khứ,
Dâng nụ cười, dâng kỷ niệm yêu xưa,
Dâng bóng ai đang hoài niệm đợi chờ,
Dâng lên Chúa trái tim hồng bé nhỏ.
(Nguyễn Hoàng Thi  - St trên internet - không rõ tác giả)

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Bát bún riêu


           Từ Auclair, theo đường Liên Tỉnh 53, ngược lên mạn Bắc là Salon Springs thì rẽ phải theo Hương Lộ “P” nhỏ hẹp ngoằn ngoèo lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, tiếp tục thêm vào dăm vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, Louisiana, trạm đặc khu của người da đỏ.

Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu. Hơn nửa giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô sào sạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào 1 hành tinh xa lạ không sinh vật. Đồi lại đồi liền liền tiếp nối nhau sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có Viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.
Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời. Trung Tâm An Dưỡng Lakeview như tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất rộng. 

 Quay lưng vô rừng thông nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn chọn làm viện dưỡng lão thì hơi tàn nhẫn.

Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài.

        Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là 1 lão ông hoặc lão bà độ bảy, tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kính. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất tới đây chăng? Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi bèn nhoẻn miệng cười:
 - Ông ngạc nhiên lắm sao?
Tôi ngập ngừng:
Bộ họ biết hôm nay tôi đến đây nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt tôi.
Cô y tá khẽ lắc đầu:
Mỗi ngày đều như vậy, sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ.
- Chờ thân nhân tới đón?
 - Dạ thưa không.
- Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm?
Cô y tá phì cười pha trò:
- Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn gái sao?
- Không, ý tôi là bạn thông thường đấy.
- Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó thôi, rồi ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong ký ức.
Rồi cô khẽ thở dài:
Tôi làm việc ở đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh, tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi.
- Chắc ít nhiều, lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không cô?
- Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng mà bây giờ tôi đã quen rồi.
- Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm?
- Chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó ông!

Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:
- Ông đi lên thang máy hay là đi xuống?
Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:
- Đi.. đi xuống, rồi đi.. đi lên, rồi đi.. đi xuống , đi lên.

Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời vô định. Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên nói:
Vậy thì xin ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang bận.

Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa. Tôi thắc mắc:  Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao cô?
- Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều gắn rất cao người già không thể với tới.
- À thì ra vậy!

Công tác xong trời cũng về chiều, tôi từ giã, cô y tá tiễn tôi ra cửa. Đoàn xe lăn vẫn còn dàn chào.
Chợt trông thấy trong góc tối 1 ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hoà nhập vào toán dàn chào. Da ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ loà xoà trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá:
- Và vị dưỡng lão này cũng là người Indian hở cô? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của chính phủ liên bang chứ?
Cô ta ngạc nhiên:
- Ủa sao ông lại hỏi vậy?
Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:
Vậy không phải Indian là gì?
Cô y tá phì cười:
Ông ta là người Á Đông đó ông ạ.
Tôi giật mình:
Người Á Đông?
- Dạ phải, dường như là Việt Nam đó.
Thêm một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng có người Việt cư trú. Tôi bèn hỏi dồn:
Sao cô biết ông ta là người Việt.
- Dạ thưa ông hồ sơ có ghi đó ông ạ.
- Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô?
- Hơn 10 năm.
Rồi cô khẽ lắc đầu:
Tội nghiệp, ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quý mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình không có bạn.
- Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm ông ấy không?
- Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây.

Không cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu tôi cũng là người Việt Nam. Cô ta trố mắt:
Ồ thế mà tôi cứ đinh ninh ông là người Trung Hoa.
Tôi cười:
- Trong mắt người Tây Phương, thì bất cứ ai da vàng cũng là người Tàu. 
Cô ta pha trò:
Cũng đâu phải lạ, nhiều anh Tàu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên miền Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon vừa rẻ nhưng phải cái là…..
Tôi nhoẻn miệng cười:
Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều phải không cô?
Cô ta cười xoà:
Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi còn thặng dư là khác.
Tôi quay lại vấn đề:
Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để mà chào hỏi làm quen, có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.
Cô y tá mừng rỡ:
Hay lắm, đó cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông dịch, nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng không?
- Vâng, tôi sẽ cố gắng làm điều đó cô.

Thấy tôi đi tới ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hom hem nhìn chầm chập, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu chào:
- Dạ thưa chào cụ ạ.
Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:
Dạ chào, chào thầy, thầy người Việt à?
Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông.
Thưa cụ cháu cũng là người Việt như cụ đấy ạ.
Ông lại nghẹn ngào:
Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Mẹ Từ Bi đã cho tôi gặp được ông.
Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.
Thưa cụ, vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Đức Mẹ sắp đặt.
- Tại đêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng hương.
- Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ?
- Để được nói chuyện bằng tiếng Việt mình thôi.
Cụ thở dài:
Lâu lắm rồi tôi chưa được nói hay là nghe tiếng mẹ đẻ.

Nhức trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:

Tên tôi là Tỉnh, Nguyễn Văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá. Tuy không giàu, nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, 3 con trai, đứa lớn nhất còn sống thì giờ này cũng đã gần 50. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay tôi chở vợ con vượt thoát, nhưng chẳng may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tàu chìm. Tôi và đứa con út lên 6 được may mắn đã gặp tàu Mỹ nó vớt, còn vợ và 2 đứa con lớn thì mất tích thầy ạ. Sau đó thì tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi ước mong thằng bé sẽ theo cha mà học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ, kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố, thế nên thầy biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để mà tiếp tục theo đại học”.

Ông ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:

Tôi chỉ có mình nó, không thể sống xa con, nên quyết định là bán hết tài sản để mà dọn theo, bạn bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến cái tiểu bang này mua 1 căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn chút ít thì gửi vào trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng chẳng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe càng yếu, năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già thì không có lành được và phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có việc làm ở Nữu Ước.

Tự biết là khó có thể theo con và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó nên tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm ăn yên ổn nó sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ quen Út mách cho tôi nơi này. Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: nơi nào cũng là quê người, cũng giống nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi. Thế là cả ngôi nhà lẫn tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được nhận.”

Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang soải cánh ông chép miệng:
- Chà nhanh quá, mới đó đã 10 năm rồi.
- Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm cụ chứ?
- Ừ, một năm thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nó nói, dâu tương lai của bố đó. Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm luôn.
- Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao? 
- Không, mà thật tình tôi cũng không muốn biết nữa.
- Tại sao, anh ấy là con trai duy nhất của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé?

Ông lão rơm rớm nước mắt:
- Tôi sợ lắm, thầy ơi, thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất còn hơn là biết tin buồn. Quả tình tôi không kham nổi.

Tôi nghẹn lời nói không được, lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn hỏi:
- Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì thì cụ cho cháu biết, cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng của mình thưa cụ.
Ông lão thở dài:
Già rồi còn được mấy năm trước mặt hở thầy?
Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:
- À, mà tôi thèm một bát bún riêu quá.

Hai tuần sau vào ngày Chủ Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm 2 bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi còn đặc biệt có thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào túi xách đem vào viện dưỡng lão Lakeview. Mất hơn 4 giờ, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông vẫn ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng.
Bất ngờ trông thấy tôi ông mừng rỡ kêu lên:
Ồ kìa thầy, thầy lại về đây công tác hở thầy?
Tôi chạy tới nắm tay ông:
Dạ thưa lần này thì cháu chỉ đến đây thăm cụ và cháu có một món quà đặc biệt mang biếu cụ đây.
Lộ vẻ cảm động ông cụ nhoẻn cười đôi mắt nhăn nheo:
Bày vẽ làm chi hở thầy, đến thăm tôi là quý rồi thầy ơi.

Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc nên tôi phải mang theo 1 lọ cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm trên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba trái ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt. Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng:
- Cám ơn thầy, không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn cho vui ạ.
- Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà, xin cụ dùng tự nhiên, bún riêu còn nhiều, hết tô này cháu sẽ hâm tô khác.
Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon, chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn miệng khen tấm tắc:
Trời ơi, bún riêu ngon quá mà mắm ruốc thơm quá thầy ơi.
Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ:
Thưa nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út và thường xuyên thăm viếng cụ nhé.
Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má hóp:
Trời ơi, sao tôi có được diễm phúc như vậy sao trời!

Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi. Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp có cả trà thơm, mứt ngọt dự định sáng hôm sau Mồng Một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ. Đang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu dây tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão Lakeview:
 Dạ thưa hỏi, có phải ông là ông Trần không?
Dạ vâng ạ, là chính tôi đây .
- Dạ thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng.
- Tình trạng thế nào có nguy không cô?
- À, đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố đó thưa ông.
- Cám ơn cô rất nhiều, ngày mai tôi sẽ đến cụ.
- À ông nên đi sớm hơn đi là vì sợ không còn dịp nữa.

Tôi rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xoá một màu, tuyết phủ lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố. Sau cùng cũng tới được bệnh viện Hayward.
Cô y tá nhìn tôi ái ngại:
Thưa ông, suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không ạ.
Cô còn nhớ là ông gọi tên gì không?
- Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là Work hay Út gì đó.
Tôi đã hiểu là thằng Út.

Tôi hé cửa lách vào trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường, người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào.. Út.. Út.
Nước mắt chực trào ra, giờ phút nầy tôi phải làm một điều gì để ông được mỉm cười khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay gầy guộc và nghẹn ngào:
- Thưa cha, con đã về đây thưa cha.
Mi mắt ông động đậy, cố nhướng nhìn lên. Rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy:
Út.. Út, Út con.
Phải thưa cha, con là Út đây cha. Con là đứa con bất hiếu đã quay về bên cha để xin cha tha thứ cho con.
Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng tay tôi, cố nắm giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.

Gia tài ông để lại là một bọc vải nhỏ trong ấy có một tượng chúa Giê-Su bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã ố vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.

Tuổi xuân giờ đã đi đâu
Còn đây tóc bạc phai màu thời gian

Tác giả Ẩn Danh 
(Email A.Nghiêm Dương)